Quá trình sụp đổ Cách mạng 1989

Các sự kiện năm 1989 còn được gọi là Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản (Fall of Communism, the Collapse of Communism), các cuộc biểu tình tại Đông Âu là những phong trào lật đổ các nhà nước xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô của các nước Đông Âu.

Những sự kiện bắt đầu tại Ba Lan,[18][19] và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania. Các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 không thành công để kích thích những thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của người biểu tình trong cuộc biểu tình đó đã giúp để thúc đẩy các sự kiện tương tự ở các khu vực khác của thế giới.

Albania và Nam Tư từ bỏ chủ nghĩa cộng sản từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước năm 1992: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia và Montenegro). Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991, kết quả là Nga và 14 quốc gia mới tuyên bố độc lập từ Liên bang Xô Viết: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Tác động của sự sụp đổ này được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Cộng sản đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, và Mông CổNam Yemen. Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN đã dẫn tới tuyên bố kết thúc chiến tranh lạnh.

Việc áp dụng các hình thức khác nhau của nền kinh tế thị trường thường dẫn đầu trong việc giảm mức sống ở các nước Đông Âu thời kỳ hậu Cộng sản, cùng với tác dụng phụ bao gồm sự gia tăng của đầu sỏ chính trị kinh doanh tại các nước như Nga, và phát triển xã hội và kinh tế. Cải cách chính trị đã bị thay đổi, một số quốc gia Đảng cộng sản vẫn có thể giữ cho mình quyền lực, chẳng hạn như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong khi đối với các quốc gia các đảng chính trị khác đã thành công. Nhiều tổ chức cộng sản và xã hội ở phương Tây có tôn chỉ quay sang nền dân chủ xã hội. Các cảnh quan chính trị châu Âu đã quyết liệt thay đổi, với rất nhiều nước Đông Âu gia nhập NATO và hội nhập kinh tế mạnh mẽ hơn châu Âu và xã hội tiếp đó.

Ba Lan

Chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Lech Wałęsa (giữa) với Tổng thống Mỹ George H. Bush (phải) và Barbara Bush (trái) ở Warsaw, tháng 7 năm 1989.Đại hội lần thứ tư của Liên Hợp Đảng Người lao động Ba Lan, được tổ chức vào năm 1963.

Một làn sóng các cuộc đình công đã nổ ra ở Ba Lan vào tháng Tư và tháng 5 năm 1988, làm tê liệt nền công nghiệp của đất nước. Một làn sóng đình công tiếp theo bùng nổ vào ngày 15 tháng 8, khi mà giới công nhân kêu gọi tái hợp pháp hoá Công đoàn Đoàn kết.

Trong vài ngày tiếp theo, một loạt các cuộc đình công tại các mỏ than và các nhà máy đóng tàu đã diễn ra, bao gồm cả cuộc đình công vào ngày 22 tháng 8 tại Nhà máy đóng tàu Gda-xtan, nơi khai sinh của Công Đoàn đoàn kết. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1988, Lech Wałęsa, lãnh tụ của Công đoàn Đoàn kết đã được chính quyền Cộng sản mời đến Warsaw để đàm phán.

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1989 tại một phiên họp đầy căng thẳng thuộc Đại hội lần thứ mười của Đảng Công nhân Thống nhất (là đảng đang cầm quyền ở Ba Lan), Tổng bí thư Wojciech Jaruzelski, đã xoay xở để có được sự tán thành của toàn đảng về việc mở các cuộc đàm phán chính thức với Công đoàn Đoàn kết. Vào ngày 6 tháng 2 năm 1989, cuộc đàm phán giữa chính quyền Cộng sản Ba Lan và Công đoàn đoàn kết đã diễn ra tại Hội trường Cột ở Warsaw.

Vào ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hiệp định Bàn tròn lịch sử giữa hai bên đã được ký kết, qua đó chính quyền chính thức hợp pháp hóa Công đoàn Đoàn kết, đồng thời lên kế hoạch cho một cuộc bầu cử quốc hội tự do được tổ chức trên toàn quốc vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 (tình cờ, một ngày sau đó sự kiện Quảng trường Thiên An Môn ở Trung Quốc đã diễn ra).

Một cơn địa chấn đã xảy ra tại cuộc bầu cử quốc hội khi Công đoàn Đoàn kết đã giành được chiến thắng áp đảo, dù không ai nghĩ rằng họ có thể làm được điều này. Các ứng cử viên thuộc Công đoàn Đoàn kết đã giành được tất cả số ghế mà họ được phép cạnh tranh tại Hạ viện, trong khi tại Thượng viện, họ đã giành được 99 trong số 100 ghế có sẵn (với một ghế còn lại do một ứng cử viên độc lập đảm nhận). Đồng thời, nhiều ứng cử viên Cộng sản nổi bật đã không giành được số phiếu tối thiểu cần thiết để nắm được các vị trí dành riêng cho họ.

Vào ngày 15 tháng 8 năm 1989, hai đồng minh lâu năm của Đảng Cộng sản là Đảng Nhân dân Thống nhất (ZSL) và Đảng Dân chủ (SD) đã chính thức phá vỡ liên minh với Đảng Cộng sản và tuyên bố ủng hộ Công đoàn Đoàn kết. Thủ tướng Cộng sản cuối cùng của Ba Lan, Tướng Czesław Kiszczak, cho biết ông sẽ từ chức để cho phép một người không phải cộng sản thành lập chính quyền. Vì Công đoàn Đoàn kết là nhóm chính trị duy nhất khác có thể thành lập chính phủ, nên hầu như chắc chắn rằng một thành viên của Công đoàn Đoàn kết sẽ trở thành thủ tướng.

Vào ngày 19 tháng 8 năm 1989, trong một khoảnh khắc khó quên, Tadeusz Mazowiecki, một biên tập viên báo chí chống Cộng, người ủng hộ nhiệt thành của Công đoàn Đoàn kết, một người Công giáo sùng đạo, đã được đề cử làm Thủ tướng Ba Lan, trong khi Liên Xô không hề lên tiếng phản đối. Năm ngày sau, vào ngày 24 tháng 8 năm 1989, Quốc hội Ba Lan đã chấm dứt hơn 40 năm cai trị độc đảng bằng cách chấp thuận Mazowiecki trở thành Thủ tướng phi cộng sản đầu tiên của đất nước kể từ sau thế chiến II.

Vào ngày 13 tháng 9 năm 1989, một chính phủ phi Cộng sản mới đã được quốc hội phê chuẩn, đánh dấu chiến thắng đầu tiên trong phong trào cách mạng dân chủ tại Đông Âu năm 1989. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1989, bức tượng của Felix Dzerzhinsky, người sáng lập ra lực lượng Cheka của Ba Lan, biểu tượng của sự áp bức dưới chế độ Cộng sản, đã bị phá hủy. Vào ngày 29 tháng 12 năm 1989, Sejm đã sửa đổi hiến pháp để thay đổi tên chính thức của đất nước từ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan thành Cộng hòa Ba Lan. Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (Đảng Cộng sản Ba Lan) đã tự giải tán vào ngày 29 tháng 1 năm 1990 và đổi tên thành Đảng Dân chủ xã hội Ba Lan.

Năm 1990, Jaruzelski từ chức tổng thống Ba Lan và được thay thế bởi lãnh tụ phong trào Công đoàn Đoàn kết Lech Wałęsa, người đã giành chiến thắng tại cuộc bầu cử tổng thống năm 1990 được tổ chức trong hai vòng vào các ngày 25 tháng 11 và ngày 9 tháng 12.

Sự kiện Walesa nhậm chức tổng thống vào ngày 21 tháng 12 năm 1990 được coi là sự kết thúc chính thức của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan cộng sản và là khởi đầu của Cộng hòa Ba Lan dân chủ. Khối Hiệp ước Warsaw đã được giải thể ngày 1 tháng 7 năm 1991. Vào ngày 27 tháng 10 năm 1991 cuộc bầu cử quốc hội hoàn toàn tự do đầu tiên kể từ năm 1945 đã được tổ chức. Điều này đã hoàn thành quá trình chuyển đổi của Ba Lan từ chế độ cộng sản chủ nghĩa sang một hệ thống chính trị dân chủ tự do kiểu phương Tây. Quân đội Nga đã hoàn toàn rút khỏi Ba Lan vào ngày 18 tháng 9 năm 1993.

Hungary

Noi gương Ba Lan, Hungary trở thành quốc gia Đông Âu tiếp theo chuyển tiếp sang sang một chính phủ phi Cộng sản. Mặc dù Hungary đã tiến hành một số cải cách kinh tế và tự do hóa chính trị trong những năm 1980, nhưng những cải cách thực sự lớn và triệt để chỉ xảy ra sau khi János Kádár trở thành Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản vào ngày 23 tháng 5 năm 1988. Vào ngày 24 tháng 11 năm 1988 Miklós Németh được bổ nhiệm làm Thủ tướng Hungary. Vào ngày 12 tháng 1 năm 1989, Nghị viện đã thông qua một "gói đạo luật dân chủ", trong đó công nhận các quyền tự do lập hội, tự do hội họp, và tự do báo chí; xây dựng một luật bầu cử mới; đồng thời sửa đổi lại hiến pháp. Vào ngày 29 tháng 1 năm 1989, một thành viên của Bộ Chính trị là Imre Pozsgay đã tuyên bố rằng cuộc nổi dậy năm 1956 của Hungary là một cuộc cách mạng của nhân dân, chứ không phải một cuộc bạo loạn được giật dây bởi nước ngoài như những gì mà chính quyền đã mô tả trong suốt hơn 30 năm.

Các cuộc biểu tình lớn nổ ra vào ngày Quốc khánh 15 tháng 3, đã buộc chính quyền phải bắt đầu quá trình đàm phán với các lực lượng chính trị phi Cộng sản mới nổi. Các cuộc đàm phán Bàn Tròn bắt đầu vào ngày 22 tháng 4 và tiếp tục cho đến khi thỏa thuận Bàn Tròn được ký kết vào ngày 18 tháng 9. Tại các cuộc hội đàm này, một số nhà lãnh đạo chính trị tương lai của Hungary đã xuất hiện, bao gồm László Sólyom, József Antall, Gyorgy Szabad, Péter Tölgyessy và Viktor Orbán

Vào ngày 2 tháng 5 năm 1989, Hungary bắt đầu tháo dỡ hàng rào biên giới dài 240 km (150 dặm) với Áo. Điều này đã làm gia tăng tình trạng bất ổn ở Đông Đức và Tiệp Khắc trong mùa hè và mùa thu, khi hàng ngàn công dân từ hai nước này vượt biên trái phép sang phương Tây qua biên giới Hungary-Áo.

Vào ngày 1 tháng 6 năm 1989, Đảng Cộng sản Hungary cuối cùng đã thừa nhận rằng cố Thủ tướng Imre Nagy (người từng bị treo cổ vì tội phản quốc sau cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956 thực tế đã bị chính quyền xử tử một cách bất hợp pháp sau một phiên tòa giả tạo. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1989, Nagy đã được cử hành một đám tang long trọng trên quảng trường lớn nhất Budapest trước đám đông ít nhất 100.000 người, sau đó ông đã được an táng như một anh hùng dân tộc.

Theo thỏa thuận Bàn Tròn ngày 18 tháng 9, chính quyền cộng sản đã buộc phải chấp nhận sửa đổi lại Hiến pháp, thành lập một Tòa án Hiến pháp, hợp pháp hóa các đảng chính trị, tổ chức bầu cử đa đảng, cải cách Bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự.

Vào ngày 7 tháng 10 năm 1989, Đảng Cộng sản tại kỳ đại hội cuối cùng của nó đã chính thức đổi tên thành Đảng Xã hội Hungary.

Trong phiên họp lịch sử từ ngày 16 đến 20 tháng 10, quốc hội đã thông qua luật quy định về bầu cử quốc hội đa đảng và bầu cử tổng thống trực tiếp thông qua phổ thông đầu phiếu, cuộc bầu cử sẽ được tổ chức vào ngày 24 tháng 3 năm 1990. Hiến pháp mới được ban hành đã đổi tên Cộng hòa Nhân dân Hungary thành Cộng hòa Hungary, đảm bảo các quyền con người và tự do dân chủ, đồng thời tạo ra một cấu trúc thể chế đảm bảo sự phân chia quyền lực giữa các nhánh tư pháp, lập pháp và hành pháp của chính phủ.

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1989, nhân kỷ niệm 33 năm Cách mạng 1956, chế độ cộng sản ở Hungary chính thức bị bãi bỏ. Sự chiếm đóng quân sự của Liên Xô ở Hungary, vốn đã tồn tại kể từ Thế chiến II, cuối cùng đã chính thức chấm dứt vào ngày 19 tháng 6 năm 1991.

Đông Đức

Bức tường Berlin tại Cổng Brandenburg, ngày 10 tháng 11 năm 1989

Sau khi đường biên giới đã được mở từ phía Hungary, ngày càng có nhiều người Đông Đức đã bắt đầu di cư sang Tây Đức thông qua biên giới của Hungary với nước Áo. Đến cuối tháng 9 năm 1989, hơn 30.000 người Đông Đức đã trốn thoát sang Tây Đức. Trước tình hình đó, chính phủ Đông Đức đã cấm người dân di chuyển tới Hungary, khiến cho Tiệp Khắc trở thành nhà nước láng giềng duy nhất mà người Đông Đức có thể nhập cảnh.

Hàng ngàn người Đông Đức đã cố gắng để tiếp cận Tây Đức bằng cách chiếm đóng các cơ sở ngoại giao ở thủ đô các nước Đông Âu khác, đặc biệt là tại Đại sứ quán Đông Đức ở Prague, nơi hàng ngàn người Đông Đức đã cắm trại trong khu vườn lầy lội từ tháng Tám đến tháng Mười Một. Đông Đức đã đóng cửa biên giới với Tiệp Khắc (CSSR) vào đầu tháng Mười, từ đó cô lập mình khỏi tất cả các nước láng giềng.

Do cơ hội cuối cùng để tẩu thoát khỏi đất nước đã bị đóng lại, những người Đông Đức bắt đầu cuộc biểu tình được gọi là biểu tình Ngày Thứ Hai. Hàng trăm ngàn người dân ở một số thành phố - nhiều nhất là ở Leipzig - đã tham gia vào những cuộc biểu tình này.

Sau cuộc biểu tình ngày 02 Tháng Mười, lãnh đạo Đảng Thống nhất Xã hội Chủ nghĩa (SED) Erich Honecker đã ra lệnh cho quân đội nổ súng và giết hại người biểu tình. Đảng Cộng sản chuẩn bị một lực lượng cảnh sát rất lớn, bao gồm cả dân quân, cảnh sát chìm (Stasi), và quân tác chiến. Đã có tin đồn về một vụ thảm sát Thiên An Môn nữa.

Ngày 06 tháng 10 và 07 tháng 10, Gorbachev viếng thăm Đông Đức để đánh dấu kỷ niệm 40 năm thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức, và thúc giục lãnh đạo Đông Đức chấp nhận cải cách. Một câu nói nổi tiếng của ông được dịch sang tiếng Đức là "Wer zu spät kommt, den bestraft das Leben" (Ai quá muộn sẽ chết). Tuy nhiên, Erich Honecker vẫn chống đối cải cách, chính quyền của ông thậm chí còn đi xa hơn bằng cách cấm lưu hành các ấn phẩm báo chí của Liên Xô, mà chính quyền Đông Đức xem là phản động.

Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự đang diễn ra, Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (SED) đã nhất trí bãi nhiệm Honecker vào giữa tháng Mười, và thay thế ông ta bằng Egon Krenz. Ngoài ra, biên giới với Tiệp Khắc đã được mở cửa trở lại, nhưng chính quyền Tiệp Khắc đã sớm cho phép tất cả những người tị nạn Đông Đức được nhập cảnh trực tiếp vào Tây Đức mà không có đòi hỏi thêm thủ tục gì, do đó chính thức phá bỏ một phần của Bức màn sắt vào ngày 3 tháng 11.

Không thể làm gì để ngăn chặn dòng người tị nạn đổ xô tới phương Tây thông qua Tiệp Khắc, chính quyền Đông Đức cuối cùng đầu hàng trước áp lực công chúng vào ngày 9 tháng 11, bằng cách cho phép các công dân Đông Đức được nhập cảnh trực tiếp vào Tây Berlin và Tây Đức, thông qua các cửa khẩu biên giới, không cần phải khai báo với lính biên phòng.

Kích hoạt bởi các ngôn từ thất thường của Günter Schabowski trong một cuộc họp báo truyền hình, nói rằng những thay đổi là "có hiệu lực ngay lập tức", hàng trăm ngàn người Đông Đức đã lợi dụng cơ hội, đổ xô qua Bức tường Berlin vừa được mở để chạy sang Tây Đức.

Đến tháng mười hai, Krenz đã được thay thế, và chế độ độc tài của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa đã kết thúc. Điều này dẫn đến sự tăng tốc của quá trình cải cách ở Đông Đức, cuối cùng kết thúc với sự thống nhất của Đông và Tây Đức có hiệu lực từ ngày 03 tháng 10 năm 1990.

Tiệp Khắc

Bài chi tiết: Cách mạng Nhung

"Cuộc cách mạng nhung" là một cuộc chuyển giao quyền lực bất bạo động ở Tiệp Khắc đã biến nước này từ một quốc gia Cộng sản trở thành một nước cộng hòa nghị viện. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1989, cảnh sát chống bạo động đã đàn áp một cuộc biểu tình hòa bình của sinh viên ở Prague, mặc dù tranh cãi vẫn tiếp tục về việc có ai chết đêm đó hay không. Sự kiện đó đã dẫn tới một loạt các cuộc biểu tình của người dân từ ngày 19 tháng 11 đến cuối tháng 12.

Đến ngày 20 tháng 11, số người biểu tình ôn hòa được tập hợp tại Prague đã tăng từ 200.000 người lên tới nửa triệu người. Năm ngày sau, cuộc biểu tình tại Letná Square đã thu hút 800.000 người. Vào ngày 24 tháng 11, toàn bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản, bao gồm cả tổng bí thư Miloš Jakeš, đã tuyên bố từ chức. Một cuộc tổng đình công toàn quốc kéo dài hai giờ đã được tổ chức vào ngày 27 tháng 11.

Với sự sụp đổ của các chính phủ Cộng sản tại các quốc gia Đông Âu khác, và các cuộc biểu tình trên đường phố ngày càng gia tăng, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã tuyên bố vào ngày 28 tháng 11 năm 1989 rằng họ sẽ từ bỏ quyền lực và đồng thời thủ tiêu nhà nước độc đảng.

Dây thép gai và các vật cản khác đã được gỡ bỏ khỏi biên giới với Tây Đức và Áo vào đầu tháng 12. Vào ngày 10 tháng 12, Tổng thống Gustáv Husák đã chỉ định chính phủ phi Cộng sản đầu tiên ở Tiệp Khắc kể từ năm 1948, sau đó ông quyết định từ chức. Alexander Dubček được bầu làm chủ tịch quốc hội liên bang vào ngày 28 tháng 12 và Václav Havel được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Tiệp Khắc dân chủ vào ngày 29 tháng 12 năm 1989.

Vào tháng 6 năm 1990, Tiệp Khắc đã tổ chức cuộc bầu cử quốc hội dân chủ đầu tiên kể từ năm 1946. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1991, toàn bộ quân đội Liên Xô đã rút khỏi Tiệp Khắc

Tiệp Khắc bị tách thành hai nước sau khi bầu cử:

Bulgaria

Vào tháng 10 và tháng 11 năm 1989, một loạt cuộc biểu tình về vấn đề môi trường đã được tổ chức tại thủ đô Sofia, tại đây các yêu cầu cải cách chính trị cũng được lên tiếng. Cuộc biểu tình đã bị đàn áp, nhưng vào ngày 10 tháng 11 năm 1989 (một ngày sau khi Bức tường Berlin bị phá vỡ) nhà lãnh đạo độc tài lâu năm của Bulgaria là Todor Zhivkov đã bị Bộ Chính trị lật đổ. Ông được thay thế bởi một người Cộng sản có quan điểm tự do hơn đáng kể là cựu bộ trưởng ngoại giao Petar Mladenov. Liên Xô rõ ràng đã chấp thuận việc thay đổi lãnh đạo, bởi vì Zhivkov là người đã phản đối quyết liệt chính sách cải tổ của Gorbachev.

Chế độ mới ngay lập tức bãi bỏ các hạn chế về tự do ngôn luận và hội họp, dẫn đến cuộc biểu tình rầm rộ đầu tiên vào ngày 17 tháng 11, cũng như sự hình thành các phong trào chống cộng sản trên cả nước.

Liên minh các lực lượng dân chủ (UDF) đã được thành lập vào ngày 7 tháng 12. UDF yêu cầu các cải cách dân chủ triệt để hơn, quan trọng nhất là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bulgaria được quy định trong hiến pháp.

Mladenov tuyên bố vào ngày 11 tháng 12 năm 1989 rằng Đảng Cộng sản sẽ từ bỏ độc quyền về quyền lực và cam kết rằng một cuộc bầu cử đa đảng sẽ được tổ chức vào năm sau. Vào tháng 2 năm 1990, cơ quan lập pháp Bulgaria đã thông qua sửa đổi hiến pháp, chính thức xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Một loạt các buổi đàm phán đã diễn ra từ ngày 3 tháng 1 đến ngày 14 tháng 5 năm 1990, tại đó các bên đã đạt được thỏa thuận về quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ.

Đảng Cộng sản chính thức từ bỏ chủ nghĩa Marx Lênin vào tháng 4 năm 1990 và đổi tên thành Đảng Xã hội Bulgaria. Vào tháng 6 năm 1990, cuộc bầu cử tự do đầu tiên kể từ năm 1931 đã được tổ chức, và Đảng Xã hội Bulgaria đã giành được thắng lợi.

Romania

Bài chi tiết: Cách mạng România

Không giống như các nước Đông Âu khác, Romania đã không bao giờ trải qua bất cứ phong trào bài Stalin nào, thế nhưng quốc gia này đã tự tách mình khỏi sự thống trị của Liên Xô từ những năm 1960.

Tháng 1 năm 1989, Ceauşescu tái cử thêm 5 năm với cương vị là lãnh đạo của Đảng Cộng sản Rumani ở độ tuổi 71. Sự kiện này cho thấy Ceausescu vẫn có ý định duy trì quyền lực trước bối cảnh các cuộc nổi dậy chống cộng sản đang càn quét phần còn lại của Đông Âu.

Khi Ceauşescu chuẩn bị lên đường cho một chuyến thăm cấp nhà nước tới Iran, lực lượng Securitate của ông đã ra lệnh bắt giữ và trục xuất một bộ trưởng địa phương nói tiếng Hungary có tên là László Tőkés vào ngày 16 tháng 12, với lý do "phản đối chế độ". Tőkés bị bắt giam, dẫn tới các cuộc bạo loạn nghiêm trọng trên toàn quốc nổ ra đòi thả tự do cho Tõkes. Các cuộc bạo loạn khởi đầu ở Timisoara vào ngày 16 tháng 12, và kéo dài liên tục trong 5 ngày.

Khi trở về từ Iran, Ceauşescu đã ra lệnh sắp đặt một cuộc biểu tình quần chúng ủng hộ ông bên ngoài trụ sở đảng Cộng sản ở Bucharest. Tuy nhiên, thật bất ngờ, đám đông chuyển sang la ó Ceausescu khi ông ta phát biểu. Sau khi nhận được thông tin từ các đài phát thanh phương Tây về những cuộc nổi dậy ở Timisoara và Bucharest, những năm tháng âm ỉ nỗi bất bình với sự đàn áp của chính phủ đã thúc đẩy nhân dân Romania đấu tranh lật đổ chính quyền hiện thời, và các cuộc biểu tình lan rộng trong cả nước.

Lúc đầu, các lực lượng an ninh tuân thủ lệnh của Ceausescu và bắn vào người biểu tình, nhưng đến sáng ngày 22 Tháng 12, quân đội Rumani đột nhiên thay đổi thái độ. Xe tăng của quân đội đã bắt đầu chuyển hướng tới trụ sở Ủy ban Trung ương Đảng với đám đông quần chúng tràn ngập bước theo. Những người nổi loạn phá tung các cửa ra vào của tòa nhà Ủy ban Trung ương trong một nỗ lực để bắt lấy Ceauşescu và vợ ông, Elena, nhưng hai người đã trốn thoát qua một máy bay trực thăng đang chờ họ trên mái của tòa nhà.

Vào ngày lễ Giáng Sinh, truyền hình Rumani đã phát sóng trực tiếp phiên tòa xét xử gia đình Ceauşescu, và sau đó bản án tử hình đã được tuyên cho hai vợ chồng nhà độc tài. Một Hội đồng Mặt trận lâm thời cứu quốc đã tạm thời tiếp quản chính quyền. Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên đã được tổ chức vào ngày 20 tháng 5 năm 1990. Cách mạng Rumani là cuộc cách mạng đẫm máu nhất năm 1989: hơn 1.000 người chết, 1/10 trong số đó là trẻ em, người nhỏ nhất chỉ mới một tháng tuổi.

Albania

Tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa nhân dân Albania, Enver Hoxha, người cai trị Albania trong bốn thập kỷ với bàn tay sắt, đã chết vào 11 tháng 4 năm 1985. Người kế nhiệm ông, Ramiz Alia, bắt đầu dần dần lới lỏng chế độ cai trị. Năm 1989, các cuộc nổi dậy đầu tiên bắt đầu tại Shkodra và lây lan ra các thành phố khác. Cuối cùng, chế độ quyết định tiến hành một số cải cách tự do hóa, bao gồm cả các biện pháp năm 1990 quy định quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Chính phủ cũng bắt đầu nỗ lực cải thiện quan hệ với thế giới bên ngoài. Tháng 3 năm 1991, một cuộc bầu cử đã đưa những người cộng sản trước đây nắm quyền, nhưng một cuộc tổng biểu tình và bãi công ở các thành phố lớn đã dẫn đến việc thành lập một nội các liên minh bao gồm cả những người phi cộng sản. Đảng cộng sản Albania đã bị loại bỏ khỏi quyền lực trong cuộc bầu cử tháng 3 năm 1992, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và bất ổn xã hội.

Nam Tư

Nhà nước Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư không phải là một thành viên của khối Hiệp ước Warsaw, quốc gia này đã theo đuổi phiên bản chủ nghĩa cộng sản của riêng mình rất thành công dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito.

Nam Tư là một nhà nước đa sắc tộc, chính quyền nước này đã nỗ lực để củng cố sự đoàn kết quốc gia trong hàng thập kỷ. Tuy vậy căng thẳng giữa các sắc tộc đã bắt đầu leo thang kể từ sự kiện Mùa xuân Croatia năm 1970, một phong trào đòi quyền tự trị của Croatia mà đã bị đàn áp đẫm máu bởi chính quyền trung ương. Sự kiện Mùa xuân Croatia buộc chính quyền Nam Tư phải có những sự thay đổi nhất định. Hiến pháp Nam Tư 1974 đã tước bỏ một số quyền hành của chính quyền trung ương và trao thêm quyền tự trị cho các nước cộng hòa thành viên và các tỉnh.

Sau cái chết của Tito vào năm 1980, căng thẳng sắc tộc gia tăng một cách đáng lo ngại, đầu tiên là cuộc biểu tình năm 1981 ở Kosovo.

Nước cộng hòa thành viên Slovenia đã khởi xướng chính sách tự do hóa dần dần vào năm 1984, khá giống với chính sách Perestroika của Liên Xô. Điều này đã dẫn tới mối quan hệ căng thẳng giữa giới lãnh đạo cộng sản Slovenia với chính quyền trung ương.

Vào các năm 1987 và 1988, một loạt các cuộc đụng độ giữa những nhóm xã hội dân sự mới nổi với chính quyền cộng sản Nam Tư đã lên đến đỉnh điểm với cái gọi là "Mùa xuân Slovenia", một phong trào quần chúng đấu tranh cho cải cách dân chủ. Ủy ban Quốc tế Bảo vệ Nhân quyền được thành lập, trở thành nền tảng của tất cả các phong trào chính trị phi Cộng sản.

Đến đầu năm 1989, một số đảng chính trị chống cộng đã hoạt động công khai, thách thức quyền bá chủ của Đảng Cộng sản Slovenia. Chẳng mấy chốc, những người Cộng sản Slovenia, trước áp lực từ chính phong trào xã hội dân sự của họ, đã xảy ra mâu thuẫn với giới lãnh đạo Cộng sản Nam Tư.

Vào tháng 1 năm 1990, một Đại hội bất thường của Liên đoàn Cộng sản Nam Tư đã được triệu tập để giải quyết tranh chấp giữa các đảng phái.

Đảng Cộng sản Slovenia và Đảng Cộng sản Croatia đã tuyên bố tách rời khỏi Quốc hội Nam Tư vào ngày 23 tháng 1 năm 1990, đánh dấu sự chấm dứt tồn tại của đảng Cộng sản Nam Tư.

Đảng Cộng sản của các nước Slovenia và Croatia đã đàm phán bầu cử đa đảng tự do với các phong trào đối lập của riêng họ. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1990, liên minh DEMOS ủng hộ dân chủ và chống Nam Tư đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội ở Slovenia, trong khi vào ngày 22 tháng 4 năm 1990, cuộc bầu cử quốc hội Croatia đã đem đến một chiến thắng vang dội cho Liên minh Dân chủ Croatia (HDZ) do Franjo Tuđman lãnh đạo.

Kết quả cân bằng hơn nhiều ở Bosnia và Herzegovina và tại Macedonia trong các cuộc bầu cử quốc hội tháng 11 năm 1990, trong khi cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống tháng 12 năm 1990 tại Serbia và Montenegro củng cố quyền lực của nhà độc tài Nam Tư Milošević và những người ủng hộ ông. Bầu cử tự do trên toàn quốc ở cấp độ Liên bang đã không bao giờ được tổ chức.

Các nhà lãnh đạo của Slovenia và Croatia bắt đầu chuẩn bị kế hoạch ly khai khỏi Liên bang. Trong cuộc trưng cầu dân ý độc lập ở Slovenia được tổ chức ngày 23 tháng 12 năm 1990, 88,5% người dân đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Trong cuộc trưng cầu dân ý độc lập ở Croatia ngày 19 tháng 5 năm 1991, 93,24% người dân đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập.

Leo thang căng thẳng sắc tộc và quốc gia đã dẫn tới cuộc chiến tranh Nam Tư và sự độc lập của các quốc gia thành viên, theo trình tự thời gian:

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cách mạng 1989 http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN963... http://books.google.com/books?q=%22Autumn+of+Natio... http://www.google.com/search?tbs=bks:1&tbo=1&hl=pl... http://articles.latimes.com/1988-11-17/news/mn-458... http://www.nationalreview.com/owens/owens200406051... http://m.sputniknews.com/politics/20160125/1033697... http://chnm.gmu.edu/1989/ http://www.ccc.nps.navy.mil/si/2004/aug/knopfAUG04... http://vnexpress.net/GL/The-gioi/2010/08/3BA1F4D7/ http://www.aeinstein.org/organizationse3a7.html